Thursday, December 11, 2014

Tình yêu của Vincent Van Gogh : Danh họa Hà Lan (p1)

Chân dung tự họa Vicent Van Gogh1
Chân dung tự họa Vicent Van Gogh
Vệt ánh sáng ngoài cửa sổ hắt vào vách tường làm nổi bật những mạng nhện đang mờ ảo trong làn khói thuốc. Ánh sáng cắt vách tường ra làm đôi, vùng tối bên trái của nó là bức tượng Chúa bịđóng đinh trên thập tự giá bằng gỗ. Thân hình tiều tụy của Đấng Cứu thế dường như tan biến trong tăm tối, gương mặt Chúa buồn bã, in hằn nét đau khổ của mọi kiếp người. Bên phải là bức tranh sơn dầu hình thù kỳ dị. Mọi màu sắc âm ỉ sức nóng của sự sống, của vầng thái dương, những cánh hoa đỏ lấm tấm trên cánh đồng lúa mì vàng rực, nhưng tất cả không vực dậy niềm hoan lạc trong căn phòng lạnh lẽo chứa đựng một con người cô đơn, đói rét cùng cực. Van Gogh nằm vắt tay lên trán, thỉnh thoảng đưa tẩu thuốc lên miệng, rít thật mạnh và khói thuốc luồn nhanh vào buồng phổi, cuống cuồng sợ hải tìm lối thoát thân. Khói không thể đào tẩu theo đường hô hấp của con người, dường như nó len lỏi vào từng lỗ chân lông, bốc hơi qua mái tóc cắt ngắn, hóa thân thành những giọt nước mắt bất lực lăn xuống trũng mắt thẳm sâu, mệt mỏi và rớt vào những nếp nhăn trên gò má xanh xao của Van Gogh.

Trừng trừng, bất động. Đôi mắt thao láo như mắt của người chết oan ức. Cặp đồng tử căng ra, thu nhận vùng sáng tối phía trước. Mạng nhện, tượng Chúa, những cánh hoa và vô số hạt bụi nhảy múa trên vùng sáng quyện đầy khói thuốc. Làn mi không dám che khuất sự buồn thảm, nó như cánh buồm bị kéo lên bằng những sợi dây thần kinh căng thẳng của sự suy nghĩ miên man. Cha Van Gogh là một vị mục sư khả kính chỉ biết thờ phượng Chúa Trời và lúc nào cũng muốn Van Gogh quỳ dưới chân của đấng siêu nhiên ấy. Cánh cửa tu viện luôn rộng mở nhưng Van Gogh vẫn làm ngơ trước âm thanh quyến rũ của nhà thờ, lời cầu kinh huyền nhiệm, giọng thánh thót của tiếng chuông, tất cả chơi vơi, lạc lõng trên con đường chân lý của tâm linh Van Gogh.

Tuần lễ đầu tiên đến vùng Borinage xa xôi, hẻo lánh, giam mình trong căn phòng lạnh lẽo này, Van Gogh ngỡ mình đang rơi trên cầu thăng bằng xuống một dòng sông chảy xiết và đằng kia, hạ lưu của dòng nước là địa ngục. Chàng hiểu mình đang lao đầu vào những chuyện rồ dại, trái với khát vọng sống của mình.

Các nhân vật truyền giáo Tin Lành nhún vai lạnh nhạt khi được báo tin Van Gogh nóng lòng muốn gặp. Họ miễn cưỡng tiếp chàng và biết rằng chàng không bao giờ trở thành một mục sư thực thụ được. Van Gogh đứng trên bục giảng đạo thì con chiên của Chúa không tâm giao được với bề trên, họ cảm thấy cơn buồn ngủ xồng xộc kéo đến sau những lời nói ồ ồ, thô kệch của Van Gogh. Các nhà truyền giáo tiếp chàng vì cha chàng là mục sư. Họ đã quá biết chàng. Trước thiện chí và lòng say mê của Van Gogh, một người trong tim mang cả bầu nhiệt huyết và tràn ngập tình yêu như muốn bao dung cả nhân loại, họ đành phải chấp nhận. Nhưng bề ngoài của chàng thiểu não quá. Dáng người kín đáo, rụt rè, ăn nói cộc lốc, thiếu văn hóa, đôi bàn tay như rạn nứt không giữ yên được lâu một chỗ, mái tóc ngắn và bộ râu như nhuộm đỏ, cặp mắt có cái nhìn nghi kỵ như một con thú bị săn đuổi.

Vì thế, Hội truyền giáo gởi chàng đến Borinage như quăng một gánh nặng, một nơi dù giàu đức tin cách mấy, bất cứ vị mục sư nào cũng có thể nản lòng. Từ La Haye, Van Gogh khăn gói lên đường trong tâm trạng hân hoan và một tuần lễ nặng nề trôi qua đã cướp mất dần nghị lực của chàng.

Đúng là một địa ngục. Borinage tiêu điều, đầy khói và bụi than, chẳng có ai sinh sống ngoài đám thợ mỏ và gia đình họ. Trong sự nghèo đói và bần cùng, Van Gogh say sưa truyền bá thuyết nhân ái và lời ân sủng của Thiên Chúa cho đám người sống chui rúc dưới lòng đất. Nhưng không ai quan tâm đến lời rao giảng của chàng. Những lời của Van Gogh không phải là cánh cửa của thiên đường, mọi bày biện cám dỗ tâm hồn đối với họ đều hoàn toàn vô ích, họ chỉ thích nhấm nháp cà phê và ăn bánh mì.

Sống với đám người lao khổ này, Van Gogh cảm thấy sự cô độc đang giày xéo lòng mình. Không gian chung quanh là một thế giới xa lạ. Chàng muốn xoa dịu những nỗi đau khổ vật chất của lớp người dưới đáy xã hội ở Borinage, nhưng họ xem chàng như một anh hề múa rối, một hình nộm phát ra những lời vô nghĩa của mớ triết lý không có chất liệu từ bánh mì cà phê. Sự thành tâm của Van Gogh được đáp lại bằng những lời chế ngạo và nụ cười nửa miệng nghi ngờ.

Ánh sáng len qua kẽ lá rung rinh ngoài cửa sổ, vách tường chìm trong bóng tối, một vệt nắng chẻ đôi gương mặt Van Gogh, nửa phần dưới quai hàm bạnh ra, răng cắn môi ứa máu. Một con nhện đu đưa trước mặt chàng, treo lơ lửng trên một sợi tơ mỏng manh dính với trần nhà. Van Gogh thấy con vật điên khùng kia đang làm trò xiếc cười cợt sự ngu xuẩn của chàng, nó còn điểm để bấu víu trong không gian, đong đưa quen thuộc giữa thăng bằng và sự sống; còn Van Gogh, chàng té ngã giữa niềm tin và sự trống rỗng khủng khiếp. Van Gogh bật ngồi dậy, thổi phù vào con vật gớm ghiếc đang chứng tỏ khả năng lố bịch kia, con nhện bay một đường cong rồi vụt trở lại, sợi dây mỏng của nó đứt rồi, loài sâu bọ kia rơi xuống nền nhà, chạy biến vào gầm giường và lần đầu tiên nó hiểu thế nào là thế giới xa lạ, tối tăm của loài chuột, gián dưới nền gạch đầy bụi bặm và mùi ẩm ướt thoang thoảng xà bông, rượu và quần áo cũ.

Ngày hôm sau quá tuyệt vọng, Van Gogh van xin một người phu mỏ cho chàng biết lối sống thật của anh ta. Anh ta mỉa mai:

- Lối sống của chúng tôi ư ? Hừ, dưới kia không có ánh sáng mặt trời và cung cách nhàn tản của giới quý tộc. Chúng tôi làm việc như loài trâu ngựa.

- Tôi xuống hầm mỏ được không ?

- Được.

Hai người chui xuống hầm mỏ hẹp, vòng vèo khá lâu, sau đó cả hai đến trung tâm khu mỏ, quang cảnh nơi đây tràn ngập bóng đêm địa ngục và Van Gogh chợt hiểu tại sao họ gạt ngoài tai lời giảng của chàng.

Van Gogh thấy từng đám người lem luốc tranh nhau từng cục than trong đất, những đứa trẻ im lặng chạy như những bóng ma rách rưới, chui rúc như bầy chuột. Tuổi thơ của chúng bắt đầu từ hầm mỏ và trò chơi duy nhất của chúng là cướp trên tay nhau những cục than xù xì, những thứ đem đổi được bánh mì loại mạt hạng, khô cứng và mốc meo.

Van Gogh chảy nước mắt, chàng thương hại cho kiếp sống cùng cực của họ, lòng thương cảm chợt phát ra tín hiệu mới lạ, chàng hiểu rằng muốn đem ánh sáng bác ái và đức tin của Chúa đến giúp họ, chỉ còn cách là phải hoà đồng với cuộc sống của họ. Chàng trút tất cả đồng lương mục sư ít ỏi của mình cho họ, phân phát hết quần áo cho những kẻ rách rưới và khiêng chiếc giường ngủ của mình tặng cho những người đàn bà bệnh hoạn. Cả số tiền dùng để khuếch trương họ đạo, Van Gogh cũng tặng hết cho người nghèo. Từ đó, thế vào bộ áo nhà tu, Van Gogh khoác lên bộ đồ của con người hầm mỏ.

Ngày nọ, hàng trăm tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ hầm than. Van Gogh đang ăn trưa, chàng tức tốc chạy lại và thấy cửa lò than bị lấp đầy, vùi chôn hàng đống thây người dưới đó. Chàng cùng với những thợ mỏ còn sống kéo những thân người trần truồng cháy nám đen từ trong hầm ra, an ủi gia đình kẻ xấu số. Mải đến tối mịt Van Gogh mới ngưng làm việc, buông mình mệt lả trên đống rơm thay cho giường. Tử thần cướp đi những người chất phác, hiền lành mà Van Gogh vừa hiểu được đó là những con người cần thiết nhất cho lời giảng so với đồng loại.

Thiếp lả trong giấc ngủ mệt nhọc, Van Gogh vẫn còn nghe tiếng kêu bi thảm, âm thanh văng vẳng từ địa ngục kêu gào sự sống, mắt chàng chứng kiến hàng chục sọ người trắng hếu, những cánh tay cháy đen, trụi như những thanh củi quơ quào trong không khí và nét đau khổ tột cùng của những người còn sống.

Một đêm khủng khiếp trôi qua, giấc mơ của Van Gogh không có Chúa chịu cực hình trên thập tự giá, không có nhà giảng đạo hay tiếng chuông giáo đường ngân nga mỗi sáng, chỉ có màu đen của cái chết cháy rụi, màu trắng của sọ người, nhầy nhụa óc và máu…

Một ngày kia, hai thanh tra của Hội truyền giáo đến thăm chàng. Họ vô cùng bất mãn khi gặp một người tóc tai rũ rượi, quần áo rách bươm, sống như một con vật với những mẩu bánh vụn trong một căn phòng không khác gì chuồng thú. Họ gằn giọng hỏi chàng đã làm những gì số tiền mà họ gởi đến. Van Gogh cố giải thích cho họ về nỗi khổ cực, bần cùng của đám phu mỏ. Và chàng đã dùng tiền để thoa bớt nỗi khổ tinh thần của lũ người dưới địa ngục kia. Hai vị thanh tra sống no đầy đủ đó, hai con người phục sức sang trọng phớt lờ mọi lời biện minh của Van Gogh. Họ cảnh cáo :

- Đức tính thứ nhất của một mục sư là phải làm cho người ta nể trọng. Hình như ông đã quên điều đó, bộ tịch của kẻ ăn mày như ông khó có thể hướng họ đến với nước Chúa được.

Van Gogh đứng phắt dậy, gương mặt dính đầy vệt than đá của chàng bừng nóng, con mắt dưới vầng trán đẫm mồ hôi và cái đầu óc rối bù bắn ra tia nhìn của loài thú dữ. Van Gogh lồng lộng quát tháo, hét vào mặt hai sứ giả có gò má trắng bệch, nưng nức thịt kia :

- Cút khỏi nơi đây ! Chúng mày là phường giả dối, đội lốt tu nhưng lòng không có chút tình người. Tao không chấp nhận kiểu Thiên Chúa ăn no đầy đủ và y phục tươm tất của chúng mày.

Chung quanh biết bao người đói rét, bệnh tật, chúng mày có nhìn thấy không ? Xéo ngay, cút cho khuất mắt tao!

Hai viên thanh tra sợ hãi lùi ra cửa, họ kinh hoàng trước thái độ và ngôn ngữ của Van Gogh, địa ngục đã che mờ Chúa Trời trong tâm hồn chàng rồi. Họ đã gởi phúc trình về giáo hội cấm Van Gogh không cho hành nghề mục sư nữa.

Chỉ có một người duy nhất thông cảm Van Gogh vào lúc này, đó là Théo, em chàng. Théo rất đau lòng về kiếp sống đọa đày của anh nhưng chàng không bao giờ trách móc anh mình, chàng hiểu và cảm phục Van Gogh ngay từ lúc còn nhỏ. Théo biết anh mình đang đi tìm cái gì giữa cuộc đời trăm dòng trong đục này. Sự bần cùng của Van Gogh không chỉ là bề ngoài, nó biểu hiện cho sự khánh tận niềm tin cả trong tâm hồn Van Gogh nữa.

Théo đến tìm anh ở Borinage. Chàng bước vào căn phòng của Van Gogh, bắt gặp ông anh mình đang quỳ dưới tượng chúa, khuôn mặt như kẻ đưa ma. Nghe tiếng động Van Gogh chậm rãi quay lại, không một nét vui nào khi gặp Théo, câu đầu tiên buông khỏi cửa miệng là một sự chán nản tột độ:

- Sự tuyệt vọng của nhân loại như một cái giếng không đáy, Théo ạ ! Anh không bao giờ tìm được dưới đó những gì anh muốn.

Théo ngồi im lặng, lắng nghe. Van Gogh đi tới lui trong phòng, giọng khích động theo từng cử chỉ quơ tay run rẩy. Chàng trút tất cả nỗi lòng mình cho đứa em thân yêu từ xa mới đến. Hồi lâu Théo mới đứng dậy:

- Ngày mai, anh về Hà Lan với em. Ba má sẽ giúp đỡ anh trong lúc ngặt nghèo này. Gia đình là chỗ dựa cho tâm hồn anh. Không có nơi nào đủ hơi ấm dung dưỡng tinh thần của người con xa nhà, về với em, anh Vincent, em van anh.

Tình cờ Théo thấy vài bức tranh nguệch ngoạc, những nét phác thảo của Van Gogh trong góc phòng bẩn thỉu. Chàng ngạc nhiên thấy dáng dấp đám phu mỏ đang làm việc trong tranh thật sinh động, những người đàn bà trên bãi than; đám trẻ ngoài đường phố toát lên không khí sinh hoạt của một vùng hoang dã nghèo nàn. Những hình ảnh đập vào mắt khiến chàng co thắt trái tim, cảm xúc lạ thường, và trong đầu Théo loé lên một tia sáng : biết đâu anh Van Gogh có thể thành công trên con đường hội họa ? Đằng sau những vệt ngoằn ngoèo kia chứa đựng một cái gì lạ lắm, tình yêu và sự sống âm thầm nhen nhúm trong những con người lao động lam lũ kia ánh lên một tia chớp của sấm sét, báo hiệu một cơn bão của tư duy nghệ thuật lạ lùng.

Théo đưa Van Gogh về nhà cha mẹ ở Hà Lan rồi tức tốc đến Paris, nơi đây chàng có một chỗ trưng bày và bán tranh. Théo mua ngay lập tức những vật dụng vẽ tranh cần thiết, gởi về liền cho Van Gogh.

Từ dạo ấy, Van Gogh tìm được lẽ sống mới. Chàng xách giá vẽ đi khắp các miền đồng bằng Hà Lan. Nếu trước đây Van Gogh tuyên bố với Théo rằng : "Chúa là một nghệ sĩ lỗi lạc nhất" thì lúc này chàng cảm thấy cần phải thông báo với Théo một điều : "Anh yêu hội họa tha thiết và anh nguyện sống chết với nó".

Van Gogh lang thang trên bờ sông, dừng lại ngắm một người nông dân làm việc, hoặc ngắm một người thợ sửa xe trên đường. Chàng vẽ không ngừng tay, nhưng bị hành hạ bởi một cơn sốt không cưỡng nổi hoặc cái gì đó bên trong thôi thúc, khiến chàng phải chọn giữa hai cách giải quyết: chết hoặc vẽ.

Đầu đội nón rơm rộng vành, mình mặc áo da cừu, giá vẽ trên tay, Van Gogh lăng xăng chạy khắp đồng ruộng, điên cuồng với cảm hứng sáng tạo. Nếu ức chế nó chắc chàng ngã lăn ra tắt thở vì trái tim không thể chịu đựng được cơn co giật bất thường. Thấy một cảnh nào gây ấn tượng, dù trời mưa hay nắng, Van Gogh cũng dừng lại vẽ cho bằng đựơc. Thiên hạ hiếu kỳ nhìn Van Gogh lúc chàng lên cơn thần hứng, quên hết thực tại, chỉ còn màu sắc, đường nét và hơi thở tràn đầy sức sống toát ra từ khung vải. Người đời không cảm nhận được chàng là một họa sĩ. Dáng dấp đó không có vẻ thanh thoát, bay bổng của một nghệ sĩ đang đắm mình trong nghệ thuật mà là vẻ man dã của một con hổ đang say sưa xé xác con mồi dưới nanh vuốt nhọn hoắc của mình.Thực ra, Van Gogh đang chìm đắm, chơi vơi trong khoái lạc sáng tạo, một cảm giác hạnh phúc khiến chàng say sưa hơn cả lúc giảng kinh trước đám phu mỏ.

Đối với Van Gogh ý nghĩa của cuộc sống lúc này là sáng tạo, mà sáng tạo thì không có biên giới và tự thân nó đã có ý nghĩa rất lớn lao. Đại văn hào Pháp Romain Rolland rất có lý khi cho rằng :"Chỉ có một loại hạnh phúc thôi : đó là sáng tạo. Chỉ người nào sáng tạo người đó mới sống. Số còn lại chỉ là cái bóng chập chờn trên mặt đất, xa lạ với cuộc sống, Tất cả moị niềm vui sáng tạo : Tình yêu, thiên tài, hành động, những loại sức mạnh nảy sinh trong ngọn lửa của một khối lửa chung". Và Van Gogh đang như một ngọn đuốc sống, hừng hực cháy với ánh sáng mà cả trăm năm sau người đời mới hiểu được đó là ánh hào quang nghệ thuật của một con người vĩ đại.

Một ngày kia, khi trở về nhà, ngồi vào bàn ăn, chàng gặp Kay, cô em họ vừa đến với cậu con trai nhỏ. Ánh mắt của người góa phụ cố che giấu sự buồn bã vì chồng chết trong một tai nạn bất ngờ. Mái tóc đen óng mượt và cái nhìn sâu thẳm của người đàn bà gợn một chút sóng lòng trong tâm hồn Van Gogh và chàng ngẫm nghĩ, phải chăng trước mắt chàng là một người trong tranh ? Chàng lơ đãng nói về chồng của Kay. Vẻ hồn nhiên đến độ tàn nhẫn của chàng khi nhắc về người đã khuất hơn một năm nay khiến Kay phát khóc.

Cha Van Gogh bất mãn, trách chàng bất nhã và độc ác, ông nói như giảng kinh giáo đường :

- Thỉnh thoảng con nên đến giáo đường hơn là cứ đi hoang suốt ngày ngoài đồng.

Van Gogh ngẩng đầu nhìn cha mình :

- Con không thích thờ phượng Chúa Trời của những kẻ giả vờ đội lốt nhà tu, trong khi lòng họ trống rỗng. Đối với con, Chúa Trời ở khắp nơi và người ta có thể thờ phụng ngài trong khi vẽ cũng như khi đến giáo đường nghe giảng kinh.

Cả gia đình hốt hoảng trước những lý lẽ phạm thượng của Van Gogh. Ông mục sư đứng dậy, kéo những đứa trẻ đi nơi khác để chúng khỏi nghe những lời của kẻ ăn nói bằng giọng của quỷ Sa Tăng, dù đó là con quỷ do vợ ông rút ruột đẻ ra.
Van Gogh vẫn ngồi bất động, chàng cứ tiếp tục nói, không cần ai nghe. Mọi người bỏ đi hết, chỉ còn Kay ngồi lại. Nàng lắng nghe nhưng tâm hồn mơ tưởng đâu đâu, hình ảnh người chồng quá cố lảng vảng trong tâm trí nàng. Những lời nói của Van Gogh vang động trong căn phòng tịnh mịch, trôi tuột vào hư vô. Người đàn bà trước mặt chỉ là cái bóng ma dật dờ tiếp nhận sự cuồng điên một cách hững hờ, lạnh nhạt.

Mấy ngày sau, Van Gogh cố tránh mặt cha mẹ nhưng mỗi lần gặp Kay, ánh mắt chàng lại sáng lên tia nhìn trìu mến. Chàng hiểu rằng người đàn bà kia đang lớn dần, đậm đặc màu sắc luyến ái, định hình trong trái tim chàng. Nàng đã đem lại cho chàng những tình cảm dạt dào, tự nhiên như khí trời mát dịu của sáng tinh mơ. Van Gogh xoắn xuýt bên nàng như đứa trẻ và đem khoe nàng những bức tranh chàng vẽ xong.
Mặc dù không am tường hội họa nhưng Kay vẫn thích bình phẩm theo cách cảm thụ của một người góa phụ sống trong xã hội trung lưu, có điều kiện làm quen với nghệ thuật. Và Van Gogh như một con chiên ngoan đạo, uống từng lời của nàng. Nhưng tâm tưởng của Kay luôn hướng về quá khứ, nơi mà nàng đã từng sống với người chồng bạc mệnh. Nàng không thể hiểu rằng chàng họa sĩ đang nuôi một giấc mộng tình quá lớn, thuần khiết và hoàn hảo như kết tinh từ chất liệu của viên kim cương.

Một ngày hè trên cánh đồng tràn ngập ánh nắng, Van Gogh tay cầm cọ sơn, run rẩy trước cánh đồng lúa vàng rực xa xa với những người nông dân đang lom khom nhổ cỏ. Chàng xúc động trước thiên nhiên và con người, nhưng hôm nay chàng không thể phân thân trong nỗi đam mê sáng tạo. Kay đứng kế bên ngắm bức tranh đang lộ dần những đường nét chính sinh động. Nàng không hiểu rằng Van Gogh cố gắng kềm chế cơn bão lòng. Bất chợt, Van Gogh quăng cọ sơn xuống lề đường, chàng quay sang Kay, ôm chầm lấy nàng. Kay giãy giụa xô mạnh chàng ra. Nàng chỉ thấy ánh mắt yêu thương và giọng lắp bắp van xin của chàng là cử chỉ và hành động của một kẻ động kinh điên loạn. Kay kinh hoàng chạy lại ôm con mình. Tưởng mẹ bị ăn hiếp đứa bé khóc thét lên.

Giống như thói suy nghĩ của giới trung lưu, Kay làm sao có thể hiểu được những cảm xúc thiêng liêng đang dâng trào trong tâm hồn Van Gogh. Tâm hồn nàng nhỏ nhen quá. Dưới ánh mắt bình thường, nếu không nói là tầm thường, của xã hội dầy đặc những định kiến thiếu tình người, Van Gogh trở thành một tên dâm đãng, vũ phu và ngờ nghệch. Vẻ dại khờ của một trái tim mơ mộng yêu thương khiến những người thủ cựu hoảng sợ và lo ngại cho danh giá của mình, cho hạnh phúc tương lai mình. Kay bỏ chạy về nhà Van Gogh, bỏ mặc chàng đứng như trời trồng trong tâm trạng ngổn ngang trăm mối tơ vò.

Xem tiếp P2 : Tình yêu của Vincent Van Gogh : Danh họa Hà Lan (p2)

Vương Trung Hiếu
(Sưu tầm)
Đăng bởi : mythuat247.blogspot.com