Pablo Picasso (1881-1973)
picasso ( Người đàn bà khóc ) |
Pablo Picasso – họa sĩ thiên tài của thế kỷ XX, đứa con phi thường và mạnh mẽ của thế kỷ, tia Mặt trời không bao giờ tắt, một nghệ sĩ ưu tú nhất về tầm cỡ và ảnh hưởng của ông đối với hội họa thế giới, một chiến sĩ dũng cảm đấu tranh không mệt mỏi cho Tự do, Hòa bình và Tiến bộ xã hội... Thật khó kể hết các từ ngữ tốt đẹp, những lời ca ngợi nồng nhiệt của các nhà hoạt động xã hội, các nhà nghiên cứu nghệ thuật đã viết kèm theo tên Pablo Picasso.
Ông sinh ngày 25-10-1881 tại Malaga, Tây Ban Nha, và mất ngày 8-4-1973 tại Mougins, miền Nam nước Pháp.
Với lòng nhân ái bao la và sự say mê sáng tạo nghệ thuật hiếm có, Picasso đã trở thành một trong những người đóng góp lớn cho nhân loại
kể từ xưa đến nay về mặt văn hóa, xã hội, được ngợi ca nhiều nhất và đặc biệt là làm bùng nổ nhiều cuộc tranh luận suốt gần một thế kỷ nay.
kể từ xưa đến nay về mặt văn hóa, xã hội, được ngợi ca nhiều nhất và đặc biệt là làm bùng nổ nhiều cuộc tranh luận suốt gần một thế kỷ nay.
Là con của Giáo sư hình họa José Ruiz Blasco, Picasso yêu hội họa từ bé. Năm 14 tuổi (1895), ông đã làm mọi người ngạc nhiên vì bài thi vào Trường Mỹ thuật Barcelona cho các thí sinh một tháng, ông đã hoàn thành trong một ngày. Năm 16 tuổi, ông đã được vào Học viện Hoàng gia San Fernando ở Madrid. Cùng năm đó (1897), ông được nhận Huy chương vàng với bức tranh: Knowledge and Mercy (Khoa học và lòng nhân ái) được vẽ theo phong cách cổ điển. Bức tranh này hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Picasso tại Barcelona. Thành tích đó đã làm ông nổi tiếng ở Tây ban Nha. Song Picasso đã không thỏa mãn với kết quả mang tính chất Hàn lâm ấy. Năm 1899, ông gia nhập Nhóm Nghệ sĩ Barcelona mà ông gặp tại tửu quán Bốn con mèo và tham gia triển lãm với họ.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Paris hấp dẫn các văn nghệ sĩ như một kinh thành Ánh sáng và Cách mạng. Các họa sĩ tụ hội về đây có Vincent Van Gogh, Van Dongen từ Hà Lan, Modigliani từ Italia, Chagall từ Nga, Foujita từ Nhật, Lipchitz từ Ba Lan... Picasso đã đến Paris trong làn sóng này; lần đầu tiên vào tháng 10-1899 và lưu lại ở hẳn vào năm 1904. Hơn một năm tới Paris, ông đã thành lập được một studio ở đấy.
Trang vẽ của Picasso |
Tại xóm lều Bateau Lavoir trên đồi Montmartre (13 đường Pavignan), Picasso đã gặp nhà thơ Apollinaire, các họa sĩ matisse, Derain, Jacob và Braque. Nơi đây dù phải sống trong hoàn cảnh đói nghèo, thiếu thốn thường thấy ở các họa sĩ buổi ban đầu, Picasso đã gửi gắm niềm tin vào sức mạnh lớn lao của nghệ thuật và đem lòng đồng cảm sâu sắc với những mảnh đời hắt hưu tiều tụy bên lề Paris lộng lẫy xa hoa. Đó chính là giai đoạn Màu Lam (Blue period)của ông (1901-1904). Trong giai đoạn này, ta thấy:Portrait du Poète Sabartés (Chân dung nhà thơ Sabartés - 1901) với nét buồn thiểu não; L’Entrevue(Cuộc gặp gỡ - 1902), hai chị em gặp nhau trong buồn rầu và đói khổ; Tête de femme (Chân dung một phụ nữ trẻ - 1903) cuộc sống khốn khổ với bao lỗi lo toan hằn trên khuôn mặt. Đặc biệt bức Le vieux guitariste(Xẩm già khốn khổ - 1903) lệch gối xô vai đang ôm đàn Guitare ca bài ca sầu não của tuổi già tật nguyền thê lương ảm đạm. Thời kỳ mở đầu ấy, Picasso đã vẽ theo phong cách hội họa Biểu hiện (Expressionnisme) mà trước đó Vincent Van Gogh (1853-1890) đã khởi xướng. Nếu như nét màu của Van Gogh quằn quại như sóng gió và đầy lo âu thảng thốt, thì ở đây, trong tranh của Picasso, ta thấy những màu xanh lạnh lẽo cô đơn, là hình ảnh run rẩy thẫn thờ về cô gái giang hồ, người làm xiếc tha phương, những phụ nữ, trẻ em gày yếu xanh xao, những ông già khốn khổ..., tất cả đã vạch hết cái hiện thực phũ phàng lẩn quất đằng sau vể cao sang của các thành phố châu Âu hoa lệ lúc đó.
Mắt nhìn như vậy, lòng đau như vậy, làm sao tranh lại có thể óng ả mượt mà như của Corrège, tung bay lộng lẫy như của Rubens, lả lơi gợi tình như của Fragonard, lung linh thơ mộng như của Monet hoặc trong sáng, vui tươi như của Matisse. Chân – Thiện – Mỹ ở tranh ông ẩn tàng trong lòng sự vật, ở từng cảm xúc của người nghệ sĩ. Khi con mắt của người đời chưa kịp nhận thấy, tranh ông ế ẩm chất đống trong xưởng vẽ, Picasso vẫn quyết tâm đem lòng mình gắn bó với từng giọt nước mắt, từng cánh hoa rơi, từng cơn phong ba của nhân loại. Khi xã hội còn nhiều ngang trái, bất công và đầy khổ đau, ông thấy chưa phải lúc ông vẽ tranh giàu chất trang trí để người ta trang hoàng nhà cửa. Trước hết, nó phải là vũ khí đấu tranh cho Hòa bình, Công lý, Nhân đạo. Ông đã đứng về phía nhân dân, chiến đấu vì Hạnh phúc của con người.
Tiếp đó là giai đoạn Màu Hồng (Rose period, 1905-1906), rồi giai đoạn Negro (Negro period, 1907-1908).
Picasso mở đầu phong trào hội họa Lập thể (Cubisme) với bức tranh làm mọi người sửng sốt: Les Demoiselles d’Avignon (Những cô nàng quận Avignon – 1907, Museum of Modern Art, New York). Picasso cùng với người bạn kém mình một tuổi là Braque trở thành những người đứng đầu phong trào, họ chèo chống trong phong ba, dư luận chê bai, dè bỉu. Ông vẽ thoạt đầu là lối Lập thể phân tích (Analytical Cubism,1908-1911) và sau đó là Lập thể tổng hợp (Synthetic Cubism, 1911-1914).
Hội họa lập thể không được công chúng lúc đó hoan nghênh vì xa lạ với nhiều người, nhưng lại được sự cổ vũ hết sức nồng nhiệt của nhà thơ có con mắt tinh đời Apollinarie, người được ghi nhận là phát hiện ra Picasso và nhà buôn tranh học thức người Đức Kahnweiler.
Quả thực trước khi mọi người nhận ra được vẻ cao quý, giá trị chân chính về những tìm kiếm mới mẻ và thú vị bất ngờ khi ngắm nhiều, nhìn kỹ thì mấy ai tránh khỏi bàng hoàng ngạc nhiên khi xem các bức tranh của Picasso như Nu à serviette (khỏa thân với tấm khăn voan - 1907); La Dance aux voiles (Điệu nhảy với chiếc khăn che - 1907); Trois femmes (Ba người phụ nữ - 1908); Joueur de la clarinette (Người thổi kèn clarinette 1911); Violon (1913)...
Phòng trào Lập thể chỉ kéo dài khoảng 7 năm (1907-1914), nhưng do nội dung chứa đựng vẻ đẹp độc đáo của cấu trúc, của tư duy và giàu chất trí tuệ nên đã gây tiếng vang chưa từng có trong thế giới nghệ thuật và được tranh luận rất nhiều. Với mục tiêu tái tạo ra thể mới (Création des formes), Picasso đưa vào tranh lập thể của mình cái hình dạng khác thường. Đó là kết quả của việc quan sát một cách liên tục từ nhiều hướng, nhiều khi có sự tham gia suy xét của hiểu biết. Chính vì vậy, cái hiện thực trong tranh lập thể đạt được ở tầm cao hơn, sâu sắc và biện chứng hơn. Nếu những cây bút của hội họa cổ điển có thể bắt những sự việc thoảng qua phải dừng lại trong nhiều thế kỷ thì đó là những đóng góp to lớn không ai phủ nhận, giờ đây vai trò lớn lao ấy đã kém phần ý nghĩa khi máy ảnh ra đời. Những cây bút lập thể như Picasso, Braque, André Lhote, Fernand Léger... muốn đi xa hơn, muốn bắt cả một giai đoạn của sự việc, những kết quả của tư duy, thậm chí cả những dòng tâm sự với đời phải dừng lại trong tranh.
Tranh Picasso |
Bưc tranh nổi tiếng Composition with a skull(Bố cục với đầu lâu - 1907) là một thí dụ tiêu biểu. Bức tranh này đã từng qua tay các nhà sưu tập nghệ thuậtKahnweiler (1912), Shchukin (1918) và cuối cùng từ năm 1948 nó vào Bảo tàng Ermitage. Trong bức tranh, ông gửi gắm nhiều trăn trở, tâm tư và triết lý về cái còn, cái mất của cuộc đời sự nghiệp cùng những đam mê của một người nghệ sĩ.
Bức tranh đó có kích thước trung bình (115cmÍ88cm) được vẽ theo phong cách Lập thể tổng hợp. Ở trung tâm vận cảnh là chiếc “đầu lâu” trên nền vải đỏ, phía trước bên phải là một cái gì như cái bát đặt trên hộp tạo khối. Phía sau, góc trái là những chồng sách, trên đó là cây đàn (ta nhận ra bởi cần đàn và lỗ thoát âm). Phía trên là bảng pha mầu, bút vẽ và ngay cạnh đấy là những bức tranh... Tất cả chỉ gợi tả vừa đủ theo kiểu lời ít ý nhiều, một bức tranh bố cục, các vật được tả sơ lược và bề bộn. Nếu dừng lại ở đấy theo kiểu xem tranh cổ điển, hẳng người xem sẽ thấy thất vọng.
Trước hết, xóa đi cái khác biệt Đông – Tây trong quan niệm về “đầu lâu”. Ở phương Đông, hiếm thấy sách báo nhắc tới những bộ sưu tập “đầu lâu”, vì nó thường gợi cho ta cảm giác chết chóc, rùng rợn. Ở phương Tây, việc đó lại thường xảy ra. Trong các bảo tàng ở Warszawa, Paris, London, Roma... đã trân trọng lưu giữ trái tim nhà yêu nước, bàn tay người nghệ sĩ, xác ướp các Pharaon, đầu lâu của các triết gia hoặc danh nhân... Từ cách nhìn như vậy, ta thấy trong bức tranh Bố cục với đầu lâu của Picasso, hình ảnh chiếc đầu lâu không có ý hù dọa ai, chỉ nhằm gợi nhớ và khẳng định có một người từng sống nhưng không còn nữa.
Một con người đã từng có mặt trong cuộc hành quân về phía trước của loài người, đã ra đi theo quy luật muôn đời. Anh ta đã mang theo cái thế giới riêng tư không có sự lặp lại, nhưng để lại sự nghiệp cao quý một đời đã say mê sáng tạo nên. Tất cả sách, đàn, bảng pha màu, tranh... ở trong bức tranh này gợi cho ta nghĩ đến studio của một họa sĩ. Trong đó chồng sách gối đầu là bậc thang tri thức để con người trở thành khổng lồ, làm chủ mình, làm chủ thiên nhiên và xã hội. Ở đây, sách dù để người họa sĩ vũ trang kiến thức cho mình hay là sản phẩm tư tưởng của chính người họa sĩ thì ý nghĩa của nó trong tranh cũng không hề thay đổi. Cây đàn gợi nhớ những dòng âm thanh đẹp được sắp xếp với những tiết tấu và giai điệu ngọt ngào đã từng đưa người họa sĩ đến những vương quốc kỳ lạ của cảm thức mà văn thơ, hội họa thường phải bó tay. Hay những phút giải trí lý thú do âm thanh mang lại như làn gió mang hơi sương nhẹ nhàng làm dịu bớt cơn nóng bỏng của trí tuệ. Trên hết và chiếm phần lớn không gian của bức tranh là nội dung hội họa, như thực tế đã cuốn hút phần lớn những đam mê của người họa sĩ. Đây là sự nghiệp hay chỉ là mong ước? Có lẽ cả hai, vì Picasso vẽ bức tranh này vào lúc ông 26 tuổi (1907). Thế giới nghệ thuật vừa phát hiện ra ông (1905) qua cái nhìn của Apollinaire, khi những tác phẩm tiêu biểu của ông còn ở phía trước. Đây chính là những dòng tâm sự của ông với đời và với chính mình trong ngôn ngữ của hội họa Lập thể.
Nhiều phong trào hội họa mới phát triển rầm rộ, nhưng không tồn tại được lâu. Phong trào Ấn tượng (Impressionnisme) với những họa phẩm lộng lẫy, tràn ngập ánh sáng, giàu chất thơ, dễ cảm nhận, nhưng bị những người sau đó cho là hời hợt, nông cạn. Làm sao cái chốc lát đổi thay chập chờn bên ngoài sự vật lại có thể là sự thật duy nhất mà người nghệ sĩ một đời theo đuổi như Picasso đã từng nói một cách gay gắt? Phong trào Tân ấn tượng (Néo Impressionnisme) mất theo Seurat và Signac. Phong trào Dã thú (Fauvisme) với Matisse là đại biểu xuất sắc đã xuất hiện rầm rộ khoảng ba năm (1905-1908). Lập thể nghiêm khắc không còn lan rộng sau Đại chiến thế giới I. Trong khi đó, phong trào Biểu hiện (Expressionnisme) phát động từ đầu thế kỷ ở Pháp, lan rộng sang Đức, Hà Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Nhật, Mỹ và nhiều nước khác bền bỉ cho đến ngày nay, tuy đề tài và hình thức có đổi mới. Có lẽ Biểu hiện là tiếng nói đồng cảm với những khổ đau, mất mát trên khắp hành tinh chúng ta suốt thế kỷ qua với hai cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp và nhiều cuộc chiến tranh xung đột khác kéo dài liên miên. Biểu hiện còn là tiếng gọi đấu tranh cho Hòa bình và Nhân loại. Đỉnh cao là bức tranh nổi tiếng thế giới của Picasso: Guernica (1937-Museum of Modern Art New York).
Guernica ra đời khi Đại chiến thế giới thứ II chưa bùng nổ, lúc mà những quả bom nguyên tử của Mỹ chưa ném xuống Hiroshima và Nagasaki. Picasso là người đã nhìn thấu cái bí mật khủng khiếp của tương lai. Guernica là một tác phẩm hoành tráng vĩ đại đánh dấu thời kỳ đấu tranh chống phát xít của nhân dân Tây Ban Nha, nó vừa là tiếng kêu cảnh tỉnh loài người trước cuộc chiến tranh phát xít đẫm máu và trước thảm họa nguyên tử. Trong tranh, ta thấy Nữ thần Nghệ thuật kinh hoàng, khi cầm đèn soi tỏ cảnh chết chóc tang thương do vụ ném bom của bọn phát xít Đức xuống thị trấn Guernica trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha. Cảnh những người chết và người mẹ gào khóc thảm thiết, đau lòng bế trên tay đứa con thân yêu đã chết. Ngay ở trên, là cái đầu bò thần thoại kỳ dị và trơ trơ như gỗ đá, cạnh đó là con ngựa hang đá mõm ngắc ngoải, càng làm tăng thêm vẻ man rợ của vụ thảm sát. Xa xa, về phía bên phải là một người đang kêu lên tiếng kêu phẫn nộ nhưng tuyệt vọng, hai bàn tay giơ lên chơi vơi như muốn cầu cứu nơi Đức Chúa, nhưng Chúa Trời ở quá xa... Màu sắc trong tranh xám ảm đạm, đường nét xô đổ, gãy gập, ngổn ngang, bố cục phi lý. Tất cả tạo nên hình ảnh thế giới đang sụp đổ hay là sự tàn phá mù quáng ở Guernica được nhân lên gấp bội.
Trong Thế chiến thứ II, Picasso sống tại Paris và tham gia phong trào kháng chiến của Pháp. Năm 1944, ông gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Từ năm 1948, ông cống hiến nhiều thời gian và sức lực cho các hoạt động vì hòa bình ở châu Âu. Những năm 50, ông sống ở nhiều nơi: Antibes, Cannes, Vauvenargues và Vallauris, ông làm nhiều trang trí gốm sứ, ông vẽ tranh khổ lớn Chiến tranh và Hòa bình, đồng thời ông cho ra đời một loạt tác phẩm đồ họa và điêu khắc.
Trong cuộc hành quân về phía trước của nghệ thuật, Picasso luôn luôn xông pha hàng đầu có mặt trong nhiều trường phái: Cổ điển, Biểu hiện, Lập thể, Siêu thực, Linh cảm,... và bước vào đâu, ông cũng trở thành đại biểu xuất sắc. Ông đã làm giàu cho kho tàng nghệ thuật thế giới bằng khối lượng sáng tác khổng lồ và đa dạng: Hàng vạn bức tranh lớn nhỏ các loại. Trong đó có 1.885 bức sơn dầu, 15.000 bức đồ họa, 1.228 bức điêu khắc, 3.222 tác phẩm gốm... và nhiều tác phẩm thuộc các chất liệu và loại hình khác.
Picasso là người nổi tiếng yêu chiều phụ nữ, nhưng trong cuộc đời ông chỉ có hai người vợ chính thức: Olga Khoklova (1896-1955), diễn viên ballet người Nga, và Jacqueline Roque (1926-1986), người Pháp, kém ông 45 tuổi. Hai người phụ nữ có quan hệ với ông ngoài giá thú là bà Marie Thérèse Walter và bà Françoise Gilot.
Picasso là đại biểu của sự đam mê cuồng nhiệt với vẻ đẹp và sức sống tràn trề nơi thân thể phụ nữ. Điều đó thể hiện trong nhiều tác phẩm của ông. Cuộc đời riêng của ông không xuôn xẻ, mà nhiều sóng gió, nhưng mỗi mảng có cái đẹp khác thường, nhiều khi đến cảm động. Ông là người thường gieo nghi ngờ về giá trị của những quy tắc ước lệ trong nghệ thuật và trong cả đời sống xã hội.
Ông là một nhà hoạt động xã hội lỗi lạc, luôn đi đầu trong các phong trào hòa bình thế giới. Hàng triệu người trên khắp các lục địa dù chưa hiểu biết hết các tác phẩm hội họa của Picasso, nhưng vẫn tin yêu, kính trọng ông, vì biết ông thuộc về họ. Tên ông đã trở thành gần gũi, ấm áp với tất cả những ai yêu chuộng nghệ thuật và loài người tiến bộ. Có thể hàng nghìn họa sĩ đã vẽ chim câu, nhưng chắc chắn những chim câu của Picasso bay đi xa nhất, đến được mọi nơi trên khắp hành tinh chúng ta, nó mang theo sức mạnh truyền cảm và thuyết phục.
Nguồn : sưu tầm
Soạn : mythuat247.blogspot.com