Monday, December 8, 2014

Nghệ thuật VN thời kỳ độc lập tự chủ trong chế độ phong kiến

Phần III

Ta có thể tạm chia thời kì này làm 3 giai đoạn: giai đoạn đầu từ khi Ngô Quyền dành lại độc lập từ Nam Hán đến khi kết thúc thời Tiền Lê; giai đoạn hai từ nhà Lý đến cuối thời nhà Hậu Lê;
giai đoạn thứ 3 từ thời nhà Nguyễn. Ba giai đoạn này cũng trùng khớp với sự hưng vong của chế độ phong kiến nước ta với sự hình thành, phát triển và suy tàn của nó.

Giai đoạn đầu

Như đã nói ở trên, giai đoạn này bắt đầu từ khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở đầu một giai đoạn bền vững, lâu dài hàng nghìn năm của sự phát triển của dân tộc. Với tinh thần tự hào dân tộc, những giá trị văn hóa Việt Nam bắt đầu được khôi phục, tạo điều kiện cho những giai đoạn phát triển sau nay. Tuy vậy, với thời gian ở ngôi không lâu, ảnh hưởng của nghệ thuật phương Bắc còn nhiều, triều đại của Ngô Quyền chưa làm được gì nhiều cho nền nghệ thuật dân tộc. Sau đó, loạn 12 sứ quân chỉ để lại những di tích manh mún của một vài công trình quân sự. Đinh Tiên Hoàng đã bước đầu xây dựng kinh đô ở Hoa Lư, từ đó, cùng với sự ổn định về chính trị của chính quyền phong kiến, nghệ thuật mới có điều kiện định hình. Chỉ đến khi vua Lê Đại Hành lên ngôi, cùng với thời gian, nền nghệ thuật dân tộc mới phục hồi, cộng thêm ảnh hưởng mới lạ của nghệ thuật Chăm Pa do những cuộc chinh phục của Vua về phương Nam đem lại, nền văn hóa Việt Nam mới có những bước tiến đáng kể.

Thành nhà Hồ
Thành nhà Hồ

Ngày nay chúng ta còn biết đến những dấu tích của những tòa thành nhỏ của thời 12 sứ quân như thành Quèn, Hồ Đỗ, Bạch Hạc, Độc Nhĩ… nhưng chúng không thể so sánh với công trình thành Hoa Lư, kinh đô của 2 triều vua Đinh Bộ Lĩnh và Lê Đại Hành. Thành này mang một đặc điểm quan trọng của các tòa thành Việt Nam có từ thời xây thành Cổ Loa là không vuông vức khống chế không gian như những tòa thành phương Bắc, mà luôn dựa vào địa thế núi non để dễ phòng thủ, tấn công, vừa đỡ tốn công xây đắp. Thậm chí ở tòa thành này, thành nội không nằm trong thành ngoại như quy ước thường thấy mà nằm bên cạnh, thông qua quèn (truông, hẻm núi) Võng, tạo nên thế “ ỷ dốc”, hỗ trợ lẫn nhau. Bên cạnh những viên gạch tận dụng ở Luy Lâu, Tống Bình, ta có thể thấy những loại gạch chuyên dụng để xây thành. Đá được dùng nhiều để xây nền móng cho những công trình ở đây. Điều đó chứng tỏ tính chuyên nghiệp, ý thức xây dựng cơ đồ bền vững của hai Vua.

Tuy không còn chứng tích cụ thể, nhưng dựa trên sử cũ, ta được biết cung điện Hoa Lư là to lớn và nguy nga với các điện Bảo Thiên Tuế, điện Phong Lưu, Từ Hoa, Bồng Lai, Cực Lạc, với một số cột dát vàng , bạc, mái bằng ngói bạc. Một số di tích cho thấy ảnh hưởng của nghệ thuật Chăm Pa với kiến trúc và điêu khắc. Đặc biệt hơn cả, di tích còn lại của chùa Nhất Trụ có thể là tiền thân cho chùa Một Cột thời Lý ở Thăng Long, một công trình Phật giáo độc đáo của Việt Nam. Nghệ thuật tạo hình cũng chịu số phận như những công trình kiến trúc, đến nay không còn gì nhiều. Nhưng những gì còn sót lại cho ta thấy nghệ nhân thời đó đã biết sáng tạo những những hoa văn trang trí hướng tâm, những loại họa tiết đan xen tạo thế vững vàng về bố cục mà vẫn thoải mái bay bướm, chứng tỏ tay nghề, trình độ mỹ thuật khá cao. Một số di vật ở Hà Nội thời nhà Lý vẫn còn mang dấu ấn của thời kỳ này, cùng với kiến trúc chùa Một Cột cho ta thấy sự sự phát triển của nghệ thuật dân tộc ta luôn theo một dòng chảy thống nhất, trên cơ sở một nền văn hóa có bản lĩnh, có thể có tiếp thu văn hoá bên ngoài, nhưng không vì thế mà làm lu mờ bản sắc dân tộc, nhất là khi có nền độc lập tự chủ, với ý thức tự cường của nhân dân ta.

Giai đoạn thứ 2: Lý - Trần - Hồ - Lê

Trong giai đoạn này, ta thấy một sự phát triển rực rỡ nhất, thời hoàng kim của nền nghệ thuật dân tộc, đồng thời là những mầm mống của sự suy tàn của nó, khi mà chế độ phong kiến bộc lộ sự lỗi thời phản động của nó. Có thể nói giai đoạn lịch sử này thể hiện hết sự thịnh vong của cả một chế độ chính trị, tồn tại suốt chiều dài của cả 1 thiên niên kỷ, đồng thời nó cũng cho chúng ta thấy nghệ thuật luôn luôn gắn liền số phận của nó với chính trị, gắn liền với sự tồn vong của dân tộc

Lý - Trần – Hồ, 3 triều đại nối tiếp nhau là thời kỳ hoàng kim của nền nghệ thuật Việt Nam, trong đó nghệ thuật tạo hình. Đây là những triều đại tiếp thu di sản của những thời kì trước, nền kinh tế được phát triển trên cơ sở một chế độ chính trị thích hợp với trình độ của thời kỳ đó. Điểm đặc biệt của thời kỳ này là sự bùng nổ của đạo Phật. Bản thân vua Lý Công Uẩn là một đệ tử nhà Phật, nhiều vua Trần cũng xuất gia sau khi thực hiện vai trò lãnh đạo đất nước. Nhiều nhà sư nắm giữ những vị trí quan trọng trong chính quyền như Lý quốc sư, Khuôn Việt đại sư…. Đặc điểm xã hội này dẫn tới việc xây dựng chùa chiền ở nước ta rở rộ. Trương Hán Siêu đã nói: “… nửa nước ta đã là chùa…”. Việc xây dựng tất nhiên sử dụng khối lượng nhân công khổng lồ, và chắc chắn đã có những công trình rất to đẹp. Tuy nhiên với sự hủy hoại một cách có hệ thống nhằm tiêu diệt văn hóa Việt Nam của nhà Minh, hầu như chúng ta chẳng còn những di vật có giá trị nào chứng minh cho sự phát triển kiến trúc của chúng ta, ngoài một vài di tích chắc chắn là không quan trọng, không đại diện cho nền mỹ thuật nước ta thời đó. Đây là một mất mát to lớn cho kho tàng nghệ thuật nước nhà. Cùng với sự hủy hoại đồ đồng thời Mã Viện, sự tàn phá của cuộc chiến tranh Nguyên Mông, 20 năm tiêu diệt không thương tiếc nền văn hóa Việt Nam của nhà Minh, sau này, giặc Pháp góp phần làm nốt những gì mà các chế độ phong kiến phương Bắc còn để sót lại. Qua đó chúng ta có thể thấy một nền văn hóa không thể tồn tại, phát triển mạnh mẽ nếu không có một nền độc lập dân tộc, một chế độ chính trị phù hợp với sự phát triển của dân tộc. Tuy vậy, những gì còn sót lại cũng đủ chứng minh cho sự phát triển rực rỡ của nền nghệ thuật nước nhà trong giai đoạn này.

Vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long. Kinh đô được xây dựng lại nguy nga với tính chất một kinh đô của một thời thái bình thịnh trị. Nó khác hẳn với kiến trúc thành Hoa Lư, nơi mà tính chất quân sự còn được đưa lên hàng đầu. Thành nội với trung tâm là điện Càn Nguyên, các điện Tập Hiền, Giảng Vũ, điện Long An, Long Thụy, điện Cao Minh, Nhật quang, Nguyệt Minh vây quanh cùng các cung Nghênh Xuân, Thúy Hoa, Long Thụy. Thành ngoại là 36 phố phường, nơi tập trung những phường hội, chợ búa, chùa chiền, hành cung của Vua, dinh thự của quan lại, nhà ở của phú thương… sông Tô Lịch và Kim Ngưu chảy quanh vừa là tuyến giao thông vừa là hào thiên nhiên bao quanh bảo vệ kinh thành. Tuy vậy, vì những lí do đã nói trên, thêm nữa, đặc điểm kiến trúc của chúng ta phần nhiều làm từ gỗ, chất liệu rất sẵn có với một xứ nhiệt đới, nhưng dễ bị hủy hoại bởi hỏa hoạn, bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm thấp, mối mọt, … hiện nay chúng ta gần như không thấy một chứng tích gì của lịch sử kiến trúc cung điện thành quách thời kỳ này, trừ một ít di tích thành nhà Hồ còn sót lại. Những di tích đó gợi cho chúng ta thấy sự đồ sộ của tòa thành, khâm phục khả năng kiến trúc hợp lý, công tác tổ chức, tính toán cho công trình, nhất là khi ta được biết toàn bộ kỳ công này hoàn thành trong 3 tháng. Những di tích còn sót lại phần nhiều là những công trình Phật giáo hoặc có lẽ do số lượng nhiều giặc không phá xuể, hoặc không phải là mục tiêu phá hoại triệt để của chúng, hơn nữa là nơi thờ phượng, nơi biểu dương tín ngưỡng của nhân dân nên được bảo vệ, tu sửa thường xuyên. Phật giáo thời này ngoài việc là nơi thờ Phật, tu hành, còn là nơi giáo dục thẩm mỹ cho nhân dân thông qua việc tổ chức hội lễ, việc cùng với thợ chuyên nghiệp xây dựng chùa… vì vậy có thể nói đạo Phật ngoài việc tuyên truyền tín ngưỡng của mình còn có tác dụng phát triển mỹ thuật.

Do kiến trúc chủ yếu bằng gỗ, những họa tiết được tập trung ở dàn khung nhà (câu đầu, thượng lương, xà nách…) , cửa võng, những bức tường cơ động theo kiểu ván long, lá gió. Cùng với đặc điểm thể hiện trong kiến trúc thành quách, kiến trúc đình chùa Việt Nam cũng thường hòa hợp với thiên nhiên, làm đẹp thêm thắng cảnh. Lịch sử sách vở còn ghi lại những danh thắng như vậy như chùa Thắng Nghiêm, Diên Hựu, Báo Thiên, Phật Tích, Quang Nghiêm, Siêu Loại… chúng đều là những tác phẩm nghệ thuật với sự hài hòa cùng khung cảnh và sự trang trí lộng lẫy phía bên trong. Nó đã là nơi qui tụ của khách thập phương viếng cảnh, là nơi tập trung dân chúng trong những dịp lễ hội, góp phần tạo nên nét đặc sắc trong phong cách sống của người Việt Nam. Trong những chùa nổi tiếng, chúng ta có thể kể đến chùa Một Cột với lối kiến trúc độc đáo, vừa thể hiện hết nội dung, vừa mang một sắc thái thơ mộng. Nó có thể đựoc gợi ý từ cấu trúc của chùa Nhất Trụ thời Lê Đại Hành, ngoài ra kiểu dáng này còn có thể được thấy ở cột đá còn di tích ở chùa Giạm. Chùa Phật Tích có lẽ cũng là chùa lớn ở nước ta vì từ Thăng Long người ta có thể thấy được nó nằm trên triền núi Tiên Sơn. Ngày nay, nhìn lại nền chùa, ta cũng cảm nhận được kích thước to lớn của nó. Chùa Bút Tháp hiện nay vẫn còn ở Thuận Thành (Hà Bắc). Tuy vậy, nó không còn nguyên kiến trúc cũ vì đã được trùng tu, ảnh hưởng theo phong cách Trung Quốc. Điều này cũng thường thấy ở các chùa còn nguyên vẹn ngày nay.

Có lẽ chỉ có những bảo tháp là còn mang nhiều phong cáchnguyên thủy của nó do được xây dựng bằng gạch đá, tồn tại lâu hơn với thời gian. Nhiều tháp đã được ca ngợi trong sử sách như tháp Báo Thiên, Tường Long, tháp chùa Vạn Phúc, tháp Cảnh Long Đồng Khánh, Chương Sơn, Bình Sơn, tháp chùa Đọi, … những tháp còn lại ngày nay, tuy không phải là những tháp được coi là to đẹp thời đó như tháp Bình Sơn, tháp Phổ Minh, tháp Chương Sơn, cũng đủ cho người đời nay thấy tự hào về kiến trúc mỹ thuật của ông cha. Tượng được trình bày trong đình chùa rất đa dạng do tập quán tính ngưỡng của nhân dân ta. Cùng với tinh thần “Tam giáo đồng quy “, nhân dân ta còn theo tín ngưỡng Đạo Mẫu, vì vậy, tượng trong chùa không chỉ có tượng Phật, tượng chư Tổ, mà nhiều khi có cả Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Khổng Tử, những người có công với địa phương, với tổ quốc… Nhưng những tượng Phật, những đại diện cho đạo Nho và Lão thường theo khuôn mẫu, qui phạm nên không có nhiều tượng đặc sắc. Những tượng chân dung cũng không cho chúng ta nhiều cảm xúc chân thật hơn. Chỉ có những tượng La Hán, Tôn Giả, Kim Cương, Thiên Vương còn tương đối ít gò bó. Tuy vậy một số tượng còn lại cho chúng ta thấy với sự gò bó của quy tắc không giết chết nổi cảm hứng nghệ sỹ với những nếp áo tôn thân hình thon thả của Phật A Di Đà ở chùa Phật Tích

Điêu khắc trang trí có một đặc điểm là họa tiết thay đổi theo từng triều đại khá rõ ràng, đến mức chúng ta có thể chỉ ra thời đại tương đối của chúng. Thời Lý Trần thường khắc người, quái vật Ga ru đa, chim thần Kin na ry, Ca la tăng đa với nét mặt, dáng điệu Việt Nam, mà chúng ít xuất hiện hơn ở thời hậu Lê và Nguyễn. Đặc điểm của điêu khắc thời Lý Trần là xuất phát từ vốn cổ từ thời Đông Sơn phần nào ảnh hưởng bởi nghệ thuật Chăm Pa, cộng với sự sáng tạo những họa tiết mới, đặc sắc, tạo thành một phong cách độc đáo. Đặc biệt là con rồng “giun” thời Lý mang nhiều vẻ của con rắn dài, đầu vẫn còn vết tích của cá sấu (như ở thời Đông Sơn) nên không có sừng. Nhìn hình dạng của nó, người ta thấy sự mềm mại, thân thuộc, chứ không hùng hổ, bộc lộ uy quyền như những con rồng thời Nguyễn, khi con rồng bị ảnh hưởng của con rồng Trung Quốc. Người thời Trần, có lẽ với gốc gác dân chài, với lòng tự hào với những chiến công oanh liệt đã tạo nên cho con rồng thời này mạnh khỏe hơn, với cái đầu to hơn, râu tóc rõ hơn, vảy nổi rõ hơn và đôi khi thấy có vây trên lưng.

Những tượng thú khác (rồng, hổ, voi ngựa, sóc…) còn khá nhiều ở chùa Phổ Minh, Thiên Phúc, Phật Tích… Chúng mang nhiều “tính điêu khắc” (cảm giác về khối, về sự chuyển động của khối thể hiện trong động tác) hơn những tượng của thời đại sau. Chạm trổ ở chân cột, đầu kèo, thành bậc thang… được các nghệ nhân đặt tâm huyết vào nhiều hơn cả. Chỉ với chân cột chùa Phật Tích, một bộ phận phải làm hàng loạt, không chính yếu mà cũng được chạm trổ tinh vi, trở thành những bức phù điêu hoàn chỉnh. Những bức chạm lộng Tiên tấu nhạc, Tiên dâng hoa ở chùa Thái Lạc mang đầy chất trang trí và chất thơ. Những con rồng ở 4 cánh cửa chùa Phổ Minh cũng là những tác phẩm đẹp.

Những tác phẩm hội họa, nay không còn, chỉ thấy ghi trong sử sách. Nhưng có lẽ điểm đáng khâm phục nhất là đồ sành, gốm. Đây là những vật phẩm tồn tại đến ngày nay nhiều nhất do sự bền chắc của chất liệu, nhất là gốm sứ đời Lý. Nhiều người đánh giá đồ sứ giai đoạn này thuộc loại đẹp nhất trong thời phong kiến nước ta. Khu vực tìm thấy đồ sành thời này nhiều nhất là vùng Hà Nội, Vĩnh Phú, Hà Tây. Tại Thanh Hóa, ta lại tìm thấy được nhiều đồ sứ có chất men rất trong (tuy nhiên vẫn chưa thực rõ xuất xứ). Những đồ gốm thời Trần mang dáng vẻ mộc mạc, họa tiết quen thuộc của nông dân. Tóm lại, những triều đại Lý Trần Hồ đã xây dựng nền tảng vững chắc cho nghệ thuật dân tộc với những tác phẩm đẹp, làm nền móng cho cá nghệ sỹ hậu Lê sau này.

Vào thời hậu Lê, Nho giáo chiếm địa vị độc tôn, đẩy đạo Phật và đạo Lão vào vị trí thứ yếu. Sự cướp bóc, tàn phá huỷ hoại văn hóa, kinh tế của nhà Minh đẩy nước ta vào hoàn cảnh kiệt quệ. Các vua thời Lê sơ không khuyến khích việc xây dựng cung thất, hạn chế việc xây cất của nhân dân. Vì vậy kiến trúc chủ yếu của thời kì này là trùng tu một số văn miếu và những lăng ở Lam Sơn. 
Văn miếu Xích Đằng
Văn miếu Xích Đằng


Đến giai đoạn Lê mạt, thần quyền phát triển lại. Vua và các Chúa ra sức trùng tu chùa cũ và xây chùa mới như Quỳnh Lâm , Sài Nghiêm, Hồ Thiên, Hưng Hải với biết bao công sức nhân dân. Di tích về chùa chiền còn rất nhiều so với thời Lý Trần. Thậm chí những tác phẩm hội họa cũng còn được giữ gìn tới ngày nay, trong đó một số lượng tranh châm biếm thề hiện sự đấu tranh giữa phong kiến và bình dân. Vì vậy, mỹ thuật thời kỳ này quy tụ vào kiến trúc đình chùa, điêu khắc tượng Phật, tượng La Hán, chân dung; phù điêu trang trí,… và những tác phẩm hội họa còn lại cổ nhất của ta cũng vào thời kỳ này. Những tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp,Tây thiên Đông đô Việt Nam lịch To ở chùa Bút Tháp, Tuyết Sơn, La Hán chùa Tây Phương, Lão quân chùa Mía, hòa thượng Minh Hạnh, công chúa Trịnh Ngọc Tú ở Trạch Lâm…, phù điêu ở hang núi Nhồi, chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan,bộ tranh ở đình làng Đông Ngạc… đều là những kiệt tác, hơn thế nữa chúng lại thể hiện thần thái, phong cách Việt Nam. Đồ gốm Bát Tràng ra đời và tồn tại đến tận ngày nay. Tây Sơn là một triều đại có những chiến công thần kỳ với nhiều dự định cải cách táo bạo, nhưng tồn tại quá ngắn ngủi nên không để lại gì nhiểu cho mỹ thuật Việt Nam. Tóm lại, nền nghệ thuật dân tộc trong thời kỳ phong kiến phát triển nhất ở giai đoạn này, khi mà nền độc lập dân tộc được bảo vệ vững chắc, lâu dài, kinh tế phát triển, lòng tự tôn dân tộc được củng cố với việc chiến thắng những kẻ thù hùng mạnh, và nghệ thuật có điều kiện đi vào đời sống nhân dân, dù thông qua con đường gián tiếp bằng tôn giáo.

Giai đoạn 3: thời nhà Nguyễn

Trong lịch sử nước nhà thời nhà Nguyễn gần chúng ta nhất và dấu tích nền mỹ thuật của nó cũng còn nhiều nhất. Tuy vậy, không có gì nhiều lắm để nói về thời kỳ này bởi sự tự ty của các vương triều phong kiến khi đã suy tàn trước sức mạnh của nền kinh tề tư sản đang phát huy hết sức mạnh của nó.

Phong cách lai căng là khá phổ biến trong giai đoạn này với những con rồng đầyvẻ đe dọa kiểu Trung Quốc, những dinh thự, cung điện nửa Tây nửa Mãn Thanh… Thời kỳ đầu, từ Gia Long tới Tự Đức, nghệ thuật tuy yếu ớt nhưng còn mang dáng vẻ dân tộc thì những thời vua sau nghệ thuật trở thành suy đồi. Đồ sứ của cung đình thì do nghệ nhân Giang Tây Trung Quốc sản xuất. Nghệ nhân trong nước không được tự do sáng tác. Chính trị thì lệ thuộc vào Pháp. Và việc quan Pháp xâm chiếm nước ta cũng như một tất yếu với một vương triều đầy tự ty, yếu ớt như vậy.

xem thêm Phần IV: mỹ thuật thờikỳ Pháp thuộc.

Theo tài liệu Lịch sử mỹ thuật                                                                                                        
Đăng bởi : mythuat247.blogspot.com