Tuesday, December 9, 2014

Mỹ thuật VN sau khi dành độc lập

Giai đoạn này có thể chia ra thành 3 thời kỳ lớn: thời kì chống Pháp, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ và thời kì hiện nay.

Phần V

Thời kỳ chống Pháp

Với tinh thần phấn khởi, tự hào khi dân tộc dành được độc lập sau 82  năm nô lệ , nghệ sỹ Việt Nam cùng toàn dân bước vào xây dựng nền nghệ  thuật của một nước Việt Nam tự do, tiến bộ. Tinh thần ấy được biểu lộ trong riển lãm mỹ thuật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tháng 12 năm 1956. Nhưng thực dân Pháp lại cướp nước ta một lần nữa. Nghệ sỹ Việt Nam yêu nước lại cùng dân tộc bước vào cuộc kháng chiến vĩ đại. Nhiều người đã trực tiếp cầm súng lập công như Nguyễn Cao Thương, nhiều người tiếp tục sáng tác, phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, như Lương Xuân Nhị, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Văn Tỵ, Huỳnh Văn Thuận, Tạ Mỹ Duật, Nguyễn Luyện, Hoàng Như Tiếp… trong số đó không ít người đã hi sinh.

Một số tác phẩm tiêu biểu

Lê Văn Miến. Bình văn. 1898. (Niên đại 1898 theo BT MTVN).
Lê Văn Miến. Bình văn. 1898. (Niên đại 1898 theo BT MTVN).
Nguyễn Đỗ Cung. Bộ đội Nam tiến. (1947). Bột màu.
Nguyễn Đỗ Cung. Bộ đội Nam tiến. (1947). Bột màu.
Nguyễn Đức Nùng, Nguyễn Sĩ Ngọc, Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ,
Nguyễn Đức Nùng, Nguyễn Sĩ Ngọc, Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ,
Nguyễn Sáng. Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (1956). Sơn mài. 112 x 180 cm.
Nguyễn Sáng. Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (1956). Sơn mài. 112 x 180 cm.
Cuộc kháng chiến đã đào luyện tư tưởng, thay đổi quan điểm mỹ học cho giới làm nghệ thuật. Đảng, Bác và Nhà nước luôn quan tâm, hướng dẫn về tư tưởng, tạo điều kiện vật chất để giới nghệ sỹ sáng tác dù điều kiện rất gian khổ. Vì vậy, nghệ sỹ yêu nước rất hăng hái, tích cực phục vụ kháng chiến bằng tất cả tâm huyết của mình. Ngoài những đóng góp lớn lao trong việc phục vụ kháng chiến bằng công tác tuyên truyền, bằng những cuộc triển lãm có cả những tác phẩm dài hơi bằng chất liệu khó như sơn mài, sơn dầu, bằng những công trình kiến trúc bằng vật liệu tre nứa như hội trường Hội nghị Thống nhật Việt Minh, họ đã đưa nghệ thuật vào quần chúng, và còn đào tạo một lớp nghệ sĩ trẻ, bằng những xưởng họa, và nhất là trường Mỹ thuật Việt Bắc do Hiệu trưởng Tô Ngọc Vân lãnh đạo. Những học viên ấy đã phục vụ kháng chiến ngay từ khi học tâp, đúng theo phương châm: “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến” trong tinh thần “ cách mạng hóa tư tưởng, quấn chúng hóa sinh hoạt” của Bác Hồ. Sau này, họ đã cùng những bậc thầy của mình góp phần tạo nền móng cho nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại.

Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ


Sau khi ra khỏi cuộc kháng chiến gian khổ, nghệ thuật tạo hình Việt Nam lại cùng dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng đất nước, thống nhất đất nước. Những cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc ở miền Bắc ngay từ năm 1945 đã thực sự là cuộc biểu dương lực lượng của giới nghệ sỹ tạo hình trong công cuộc phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc. Qua chúng, người ta có thể dễ dàng thấy sự lớn mạnh của phong trào làm nghệ thuật. Số lượng tác giả ngày càng nhiều, đề tài ngày càng phong phú, kỹ thuật, chất liệu ngày càng được nâng cao. Điều đó có được là do của Đảng, Nhà nước ý thức rất rõ vai trò của nghệ thuật với đời sống tinh thần của nhân dân, với cách mạng. Điều đó được thể hiện bằng sự quan tâm bằng tinh thần và vật chất với nghệ thuật. Hơn nữa, thông qua công cuộc kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới nghệ sỹ ngày càng thấm nhuần tư tưởng cách mạng, nâng cao lòng yêu nước, ngày càng được đào tạo có bài bản hơn. Trường Mỹ thuật Tạo hình Việt Nam, Trường Kiến trúc Việt Nam, Trường Mỹ thuật Công nghiệp Việt Nam đã đào luyện những nghệ sỹ thế hệ mới, đã trở thành “pháo đài nghệ thuật” của nền nghệ thuật nước nhà.

Những tác phẩm hội họa nổi tiếng như Bình minh trên nông trang của Nguyễn Đức Nùng, Tát nước đồng chiêm của Trần Văn Cẩn, Thôn Vĩnh Mốc (Huỳnh Văn Thuận), Tổ đối công (Hoàng Tích Chù)…, nhiều tượng đài được dựng lên để ca ngợi chiến công của nhân dân ta, cổ vũ tinh thần hăng hái lao động của nhân dân như tượng Nam Ngạn, tượng Dân quân Quỳnh Côi , … nhiều tượng “trong nhà” của Nguyễn Hải, Lê Công Thành, Mô Lô Cai, Đinh Rú, Nguyễn Thị Kim… đã thực sự làm vinh dự cho nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam, được giới nghệ sỹ trong và ngoài nước đánh giá cao. Những tác phẩm càng về sau càng có vẻ khỏe khoắn hơn, các chất liệu được tìm tòi phong phú hơn, đề tài ngày càng sâu sát với thực tế hơn. (tất nhiên nói như vậy không có nghĩa là chất lượng nghệ thuật cao hơn , vì việc nâng cao chất lượng đòi hỏi rất nhiều yếu tố). Kiến trúc của ta đã thực sự tạo nên một bộ mặt môi trường sinh hoạt của đất nước ta trong thời kỳ xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa. Rất nhiều công trình được xây lên phục vụ cho kinh tế, xã hội. Nhưng với tốc độ phát triển quá nhanh, lại xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, không có nhiều công trình lớn, vốn liếng eo hẹp, kiến trúc nước ta chưa có nhiều công trình đẹp, đậm phong cách Việt nam.

Không phải không có những biểu hiện èo uột, thậm chí phản động trong nghệ thuật. Nhưng với bản lĩnh chính trị vững vàng, với phẩm chất nghệ sỹ cao, giới nghệ sỹ yêu nước đã đấu tranh quyết liệt, bảo vệ cho sự trong sáng của nền nghệ thuật dân tộc.

Tô Ngọc Vân. Đốt đuốc đi học. (1954). Thuốc nước.
Tô Ngọc Vân. Đốt đuốc đi học. (1954). Thuốc nước.
Trái tim và nòng súng. 1963. Sơn mài. 84x160cm
Trái tim và nòng súng. 1963. Sơn mài. 84x160cm

Trần Văn Cẩn - Nữ dân quân vùng biển - Sơn dầu - 1960
Trần Văn Cẩn - Nữ dân quân vùng biển - Sơn dầu - 1960
Nghệ thuật tạo hình ở miền Nam trong vùng tạm chiếm nhìn chung trở nên yếu ớt, lai căng do chế độ nô dịch về chính trị và văn hóa của Mỹ và tay sai. Những trào lưu sống như Hiện sinh, Híp py, Hư vô chủ nghĩa, những phong cách nghệ thuật “mới” được đưa vào một cách ồ ạt. Và nó tỏ ra thích hợp với những tâm hồn trốn tránh thực tế. Một số họa sĩ bị sa vào “ đám mây mù tư tưởng” đó. Họ trốn tránh hiện thực, thậm chí trốn tránh cả cơ bản tạo hình bằng luận thuyết: “ tâm hồn của nghệ sỹ là tất cả, anh ta đứng trên tất cả”. Kết quả là một số lượng tranh lớn không có chất lượng cao, những tượng đài không thể làm vinh dự cho bất cứ điêu khắc gia nào được làm nên trong thời gian này. Tất nhiên không thể thiếu được những tâm hồn có tâm huyết, những họa sỹ thực sự có tay nghề, tuy nhiên số này không đủ nhiều để tạo nên bộ mặt nghệ thuật tạo hình sáng sủa hơn.

Trong khi đó, kiến trúc thị thành miền Nam có những bước tiến đáng kể. Tiếp thu khoa học hiện đại, vốn đầu tư thích đáng, những villa, những building, những chùa chiền đẹp được xây dựng. Tất nhiên đấy là nói về trình độ xây dựng chứ không thể nói môi trường kiến trúc trong đời sống. Bởi chúng không che lấp nổi những kiểu kiến trúc lai căng, khu nhà ổ chuột trên kinh Thị Nghè, rạch Bến Nghé… và những đường phố vắng bóng cây xanh. Trong vùng Giải phóng, những nghệ sỹ từng tham gia kháng chiến chống Pháp như Lê Hồng Hải, Huỳnh Phương Đông, Lê Lam, … cùng những họa sỹ yêu nước rời vùng tạm chiếm tham gia kháng chiến như Cổ Tấn Long Châu, Trang Phượng, Nguyễn Văn Kính…lại tiếp tục truyền thống kháng chiến của mỹ thuật Việt Nam thời chống Pháp. Họ lại lăn lộn trong gian khổ để cổ vũ cuộc chiến đấu của nhân dân. Cũng thành lập trường Mỹ thuật Giải phóng để tạo những hạt giống cho Mỹ thuật sau này. Những tác phẩm của họ tuy không đồ sộ về khuôn khổ, đơn giản về chất liệu nhưng nêu bật được không khí sôi sục cuộc kháng chiến với đầy chất hiện thực, tính anh hùng ca. Chúng được giới nghệ sỹ và nhân dân miền Bắc trân trọng, khâm phục không chỉ vì tinh thần dũng cảm của những nghệ sỹ làm việc đối mặt với cái chết và gian khổ, mà bằng cả trình độ nghệ thuật khá cao.

Ơ ngoài nước, những nghệ sỹ như Lê Bá Đảng, Điềm Phùng Thị cũng ghi dấu ấn của văn hóa Việt Nam ở nước ngoài bằng phong cách độc đáo với truyền thống dân tộc lâu đời.

Giai đoạn hiện nay.


Sau khi Việt Nam thống nhất, đất nước ta bước vào giai đoạn khôi phụcđất nước bị chiến tranh tàn phá và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn đất nước. Nhiều thuận lợi cho phát triển nghệ thuật, và không ít những khó khăn.Giao lưu giữa hai vùng tạo nên sự bổ sung cho những khiếm khuyết giữa các nền nghệ thuật khác nhau. Lòng tự hào sau những cuộc kháng chiến lâu dài,chiến thắng những kẻ thù to lớn thúc đẩy nghệ sỹ lao tới tìm tòi sáng tạo cho tương xứng với tầm vóc của dân tộc, điều kiện sống tương đối được cải thiện làm môi trường thưởng thức nghệ thuật mở rộng, cho nghệ sỹ một khối lượng khán giả lớn, thúc đẩy lòng hăng say sáng tạo của nghệ sỹ. Thông tin với nghệ thuật thế giới cũng được mở rộng, khả năng tiếp thu văn hóa thế giới được nâng cao. Sự chăm lo của Đảng, Chính phủ với nghệ thuật về tư tưởng, vật chất tạo môi trường sáng tác nghệ thuật.Tuy vậy, sự giao lưu với nước ngoài cũng phần nào làm hoang mang những nghệ sỹ thiếu bản lĩnh. Thêm vào đó, trong một thời gian dài nền kinh tế tụt hậu đi vào khủng hoảng, làm mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước, làm khó khăn cho việc phát triển nghệ thuật trên cơ sở lòng tin của nghệ sỹ vào chính thể, vào cách mạng, làm tăng thêm sự hướng ngoại, dễ dàng tiếp thu không chọn lọc những khuynh hướng nước ngoài, kể cả những khuynh hướng không thích hợp.

Điều đó dẫn tới phong trào sáng tác mở rộng , các triển lãm liên tục được mở ra. Tất nhiên trong giai đoạn đầu ồ ạt, chất lượng nghệ thuật không cao. Nhưng cùng với thời gian, những khuynh hướng được chắt lọc, các giá trị được định hình phần nào, và chất lượng nghệ thuật cũng dần được nâng cao. Nhiều nghệ sỹ trở nên nổi tiếng trong và ngoài nước. Cùng với việc cải tổ về kinh tế, xã hội làm ổn định đời sống, khôi phục lại niềm tin của nghệ sỹ với cuộc sống xã hội. Chúng ta có quyền hi vọng nghệ thuật trở nên phát triển, tương xứng với tầm vóc của dân tộc.

Xem thêm : Phần VI : Tổng quan về Mỹ thuật Việt Nam

Theo tài liệu Lịch sử mỹ thuật 
Đăng bởi : mythuat247.blogspot.com